| Truyện Bên cạnh thiên đường» Xếp hạng: ![]() » Đánh giá: 4.5/5,10 bình chọn » Đăng lúc: 14/06/16 14:49:56 » Đăng bởi: Trung Hi » Chia Sẻ: ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
Giờ tôi đã biết mình cần giao nó vào tay ai.
Chỉ hận không thể lập tức giao nó cho em mà thôi.
Tôi chạy ra quầy tiếp tân, gọi điện về nhà.
Không ai nghe. Tiếp tục gọi lại. Mãi về sau mới có người bắt máy, là Lông Mi.
Tôi kích động gào lên: “Anh là Quản Ngai đây, anh ở Tân Cương, em khỏe không ? Có muốn tới đây không ? Chúng ta …”
Điện thoại đột nhiên tút tút liên hồi. Tôi buộc phải nhấc ống nghe ra xa.
Áp ống nghe trở lại tai, chỉ nghe Lông Mi “alô, alô” không ngừng, một lát sau thì gác máy.
Tôi nhìn chủ khách sạn, anh ta cũng nhìn lại tôi. Cả hai đều không biết làm thế nào, không tiện chiếm mãi điện thoại, đành dập máy.
Cứ thế lại thêm mấy ngày nữa trôi qua.
Đột nhiên có cảm giác mình giống một con diều đứt dây, bay lượn trên không trung một cách đáng thương hại.
Sợi dây đó vốn nằm trong tay Bất Bất. Bất Bất đột nhiên buông tay. Hi vọng Lông Mi có thể nắm lấy. Rồi không hiểu sao lại phiêu bạt tới dây, cũng may là được Trát Ba với Kha Lan giữ lại. Giờ họ lại như cố ý muốn buông ra, nhất thời tôi cũng không thể nào quen được cái thứ gọi là tự do này. Cảm giác “không quen với tự do” khiến tôi chìm vào trầm tư.
Trước nay tôi vẫn tôn sùng “thà chết còn hơn mất tự do”, tại sao đột nhiên lại có cảm giác “không quen với tự do” như thế này ? Lẽ nào phải thay đổi quan điểm và thái độ sống của mình trước đây ? Không biết nữa. Chỉ là từ sau khi gặp Lông Mi và Trát Ba, có rất nhiều quan niệm cũ đã bị lung lay, những suy nghĩ mới cứ như sóng đập bờ đê, muốn trào dâng lên để tạo thành cơn lũ. Chưa bao giờ tôi mong có người nắm lấy sợi dây diều, đừng để nó tiếp tục phiêu bạt một cách hoang mang không mục đích như lúc này.
Tôi đã mệt.
Tôi cần nơi để dừng chân.
Mấy ngày sau đó đề không có tin tức gì.
Gọi điện qua, không ngờ nghe được tin Kha Lan đang làm thủ tục thôi việc. Tôi kinh ngạc vô cùng, vội chạy qua quán nhỏ của Trát Ba, thấy Kha Lan đang rầu rĩ thu dọn đồ đạc, nhìn thấy tôi, cô có vẻ muốn tránh né. Tôi liền chạy tới chặn trước mặt, Kha Lan ngẩng đầu lên, hai mắt cô đã sưng húp lên như hai trái đào, sắc mặt trắng bệnh như tờ giấy.
Tim tôi chợt đau thắt lại.
Kha Lan báo cho tôi biết Trát Ba đã xảy ra chuyện.
Trát Ba đã chết.
Tôi ngẩn người, đứng đần ra ở đó.
Kha Lan không thể khống chế được bản thân, bổ vào lòng tôi khóc òa lên, vẻ mặt tuyệt vọng như bụi cỏ lạc đà cuối cùng sắp bị sa mạc nhấn chìm trong cát.
Sáng sớm hôm sau, tôi đã ngồi trên xe lửa trở về.
Trước khi đi, tôi cầm hết tiền trong người đưa cho Kha Lan. Cô đã mất Trát Ba, không còn công việc, lại là một cô nhi, số tiền này có lẽ sẽ cần thiết. Kha Lan sống chết thế nào cũng không chịu nhận, cuối cùng đành miễn cưỡng cầm lấy, cẩn thận cho vào túi, dáng vẻ thương tâm khổ sở lúc đó của cô khiến tôi càng thêm khó chịu gấp bội phần. Kha Lan do dự một lúc lâu, rồi mới đưa cho tôi một chiếc phong bì lớn, yêu cầu tôi lên tàu rồi hãy mở ra.
Buổi tối hôm trước khi lên đường, tôi có tìm đến quán bar nhỏ, nơi tôi và Trát Ba, Kha Lan đã từng đến qua.
Bên trong không bật The Beatles nữa. Tôi yêu cầu nhân viên phục vụ cho nghe mấy bài cũ của The Beatles, anh ta lười nhác trả lời khách đã chọn bài khác. Tôi lại hỏi không thể thương lượng được với người kia à ? Anh ta lắc đầu từ chối với thái độ rất cương quyết. Không hiểu lúc đó tôi nghĩ gì, mà gọi một bình rượu, dùng sức đập mạnh xuống đất, một đám người nhảy xổ ra vây lấy đánh tôi tới tấp. Tôi ôm đầu, lách bên trái, tránh bên phải, miệng hét lớn giận dữ, không hề sợ hãi. Chủ quán thấy thế vội vàng chạy tới, kéo tôi ra ngoài, Tôi cũng chẳng buồn cám ơn, ủ rũ đi thẳng một mạch. Đã nhiều năm không bị ai ức hiếp, cảm giác này quả thật rất khó chịu, khó chịu đến độ khiến tôi suýt bật khóc. Đi qua một cửa hàng thuốc, tôi bèn vào mua một lọ an thần, về khách sạn, đổ ra một vốc uống rồi vùi đầu ngủ.
Ngồi trên xe lửa vắng tanh, tôi mở chiếc phong bì của Kha Lan đưa cho trước khi lên đường ra.
“Cạch !” Một vật gì đó rơi ra.
Tôi nhặt lên. Là một miếng xương được mài thành hình cái răng.
Trong phong bì còn có một lá thư nữa.
Tôi nghi hoặc mở ra đọc, bức thư này là Kha Lan viết cho tôi.
Quản Ngai,
Em vốn định không nói gì với anh cả. Thực ra là Trát Ba đã đi tìm một chiếc răng báo, bởi chiếc răng báo mà anh ấy bán cho anh lúc hai người gặp nhau lần đầu không phải là răng thật. Báo rất khó bắt, thế nên răng báo là đồ rất hiếm.
Trát Ba nói, câu đầu tiên mà anh ấy nói với anh là “bạn bè không phải để lừa gạt” . Lúc đó, anh ấy bán răng báo giả cho anh vì không ngờ sau này hai người lại trở thành bạn bè thật, bởi vậy nên anh ấy cứ áy náy không yên mãi.
Lần đó, sau khi anh phải về trước vì ốm, Trát Ba vẫn tiếp tục đi tìm mua răng báo, nhưng vẫn không có kết quả gì.
Anh ấy đến Vu Điền, nghe nói có đội thợ săn sắp xuất phát, một người quen trong đội cho biết có tin báo xuất hiện ở gần đó. Trát Ba liền trả giá cao để đặt trước một chiếc, về sau không biết thế nào lại thay đổi chủ ý, quyết định đích thân tham gia đội săn ấy.
Họ đi dọc theo rìa phía nam của sa mạc Taklimakan, đi sâu vào núi Côn Luân, tìm kiếm dấu vết của báo. Rồi họ tiến vào Tây Tạng, một hôm đội săn đang dừng lại nghỉ ngơi, thì Trát Ba nghe được tin gần đấy có một di tích cổ không tên, liền một mình đến xem thử. Sáng sớm anh ấy đã đi, đến tận trưa mà vẫn không quay lại. Mọi người cảm thấy không ổn, bèn đi tìm. Lúc thấy Trát Ba thì anh ấy đã bị thứ dã thú nào đó xé nát bét người, nhưng vẫn còn chưa đứt hơi. Anh ấy không mang theo vũ khí, chỉ dùng đôi tay để chiến đấu với dã thú.
Khi em đến nơi thì Trát Ba đã chết.
Sau đó mọi người đưa anh ấy về Trát Đạt ở Tây Tạng, đó là quê nhà của Trát Ba. Anh ấy đã nói, sau khi chết muốn được thiên táng theo phong tục của quê nhà, nói nếu thân thể được chim ưng ăn hết, linh hồn mình sẽ được cùng chim ưng bay lên tầng trời cao nhất, tốt đẹp nhất.
Tang lễ do chú của Trát Ba chủ trì, em không dám tham gia. Chú anh ấy là hòa thượng trong chùa Thác Lâm ở gần Trát Đạt. Em cũng chỉ biết địa điểm Thiên Táng là ở chỗ nào đó gần di tích Cổ Cách, nơi mà Trát Ba đã chọn cho mình từ khi còn rất nhỏ.
À, chiếc răng trong phong bì thực ra là em nhờ người lấy trộm từ xương vai Trát Ba về đấy. Em nghĩ, nó đối với anh còn quý giá hơn cả răng báo nhiều. Với lại, như thế Trát Ba có thể luôn đi theo bảo vệ anh.
Tất nhiên, em cũng có một chiếc.
Kha Lan.
Tôi đeo chiếc răng được mài từ xương Trát Ba lên cổ.
Ngẩng đầu nhìn trời.
Trên bầu trời xanh thẳm cao cút, một chú chim ưng đang kiêu ngạo lướt giữa từng không, sải cánh tung bay.
Cúi đầu. Nhận ra trên chiếc răng còn mờ mờ một vết dao. “Có lẽ là vết dao lần trước Trát Ba đã đỡ giúp mình ?”
Tôi vừa nghĩ vừa không kềm được nước mắt trào ra, trong lòng cảm thấy vô cùng hạnh phúc.
Nietzsche còn nói: “hi vọng” ngược lại chính là thứ tai họa lớn nhất bay ra từ chiếc hộp Pandora, bởi vì nó kéo dài sự đau khổ của con người. Muốn kết thúc đau khổ của chính mình, giờ tôi bắt đầu không hi vọng nữa.
Không làm ra vẻ đang âm thầm chịu đựng.
Không đem tương lai của mình gửi gắm cho người khác một cách không chắc chắn.
Thời gian, thực ra là thứ vô tâm nhất trên đời này.
Những chuyện đã trải qua, bất kể là cảm động thế nào, tất cả đều bị thời gian xóa nhòa, tất cả đều từ từ bị thời gian nhấn chìm từng chút một. Người kiên cường đến mấy rồi cũng bị ép phải lựa chọn để trở thành một kẻ vô tâm, cố gắng học cách quên đi, học cách ngụy trang, học cách dùng tương lai tươi đẹp để lừa gạt hiện tại khó khăn trước mắt.
Tôi cũng chỉ biết làm vậy, cố gắng học cách tạm thời quên Trát Ba đi.
Vác hành lý trên vai trở về nhà, trống huếch trống hoác.
Không biết Lông Mi đã đi đâu mất rồi.
Thở dài một tiếng, vào bếp kiếm mấy gói mì ăn liền, cho vào nồi nấu với mấy gói rau cải khô, rồi lặng lẽ ngồi ăn một mình.
Quan sát trong phòng, kinh ngạc nhận ra chiếc kính thiên văn của Lông Mi đã biến mất. Tiếp tục quan sát, tất cả đồ vật của em đều đã không còn nữa. Hình như em đã đi rồi ? Cả một mảnh giấy để lại cũng không có. Chắc là tại quá thất vọng vì tôi đã bỏ đi không lý do ? Cảm thấy hơi khó chịu. Trát Ba đã chết, vốn hi vọng có thể tìm chút ấm áp ở chỗ Lông Mi, giờ thì hi vọng đã tắt ngấm.
Ngồi trên sofa, chẳng muốn làm gì.
Bật máy DVD lên xem, là phim “Lola chạy mau”, chắc là phim cuối cùng mà Lông Mi xem ở nhà. Buồn chán ngồi nhìn màn hình TV, dòng suy nghĩ như một chậu cát khô, không thể hòa nhập. Câu chuyện trên phim kể về một cô gái tên là Lola điên cuồng chạy khắp nơi để giúp bạn trai tìm lại một món tiền đã mất. Số tiền này là tiền của bọn xã hội đen, nếu tìm không thấy, bạn trai cô sẽ phải lấy mạng ra để đền bù. Nhưng biển người mênh mông, biết đi đâu mà tìm bây giờ ?
Bạn trai Lola phát cáu lên với cô:
- Em cứ nói tình yêu là vạn năng, thế tình yêu có biến ra được một trăm nghìn Mark trong hai mươi phút không ?
Cuối cùng không ngờ bọn họ cũng tìm thấy được số tiền đó, xem ra tình yêu đúng là vạn năng thật.
Câu nói đó đúng là làm người ta phải suy nghĩ nhiều, tôi ngồi thần ra trên ghế trằn trọc một lúc lâu.
Nghĩ mãi rồi cũng chán, tôi đứng dậy dọn dẹp đồ đạc, xuống nhà lấy xe.
Tìm đến phòng tranh lần trước.
Ông chủ đang treo bức tranh “Mẹ” lên tường. Tôi hỏi thăm ông chủ về Lông Mi thì anh ta nói gần đây em không đến. Thất vọng đi ra ngoài, rồi lại vòng lại mua bức “Mẹ” kia về, tiện thể hỏi luôn địa chỉ mấy phòng tranh khác, qua đó xem thử, cũng không có tin tức gì của Lông Mi hết. Một họa sĩ quen Lông Mi nói hình như em đã đi Tây Đệ.
Xem ra thì không thể tìm thấy Lông Mi trong 20 phút được rồi.
Có lẽ 20 tiếng sẽ đủ chăng ?
Lái xe đi thẳng đến Tây Đệ, đến chiều tối thì đến nơi.
Lượn lờ khắp thị trấn cổ đến tận nửa đêm, đi khắp các khách sạn, cũng không thấy bóng em đâu.
Có lẽ 20 tiếng cũng không tìm được Lông Mi đâu. Biết đâu 200 tiếng được thì sao ?
Quyết định ở lại.
Ngày hôm sau tiếp tục tìm kiếm, nhưng vẫn không có kết quả. Đằng nào thì cũng không có chuyện gì, tôi liền ở đó luôn một tuần. Đến khi hi vọng biến thành tuyệt vọng. Rốt cuộc thì tôi cũng không thể tiếp tục như vậy, không thể tiếp tục một cuộc tìm kiếm 2000 tiếng đồng hồ nữa. Cuộc đời còn lại của tôi, liệu còn được bao nhiêu cái 2000 tiếng đồng hồ tội nghiệp kia mà phung phí ?
Tôi trọ trong khách sạn lần trước.
Bà lão đã bất ngờ mắc bệnh qua đời. Khách sạn mất đi linh hồn, trở lên vắng vẻ lạnh lẽo đi nhiều.
Ông già lại càng trầm mặc ít lời. Lạ một điều là, cái chết của bà lão, hình như đã gợi cho ông một điều gì đó, ông đã ôn hòa ấm áp hơn trước rất nhiều, thỉnh thoảng còn chào hỏi tôi, nói chuyện mấy câu nữa. Ngược lại, tôi vì cái chết của bà lão, cộng với chuyện không tìm được Lông Mi làm cho lòng tin với cuộc sống bắt đầu lung lay, chẳng buồn để ý đến ông lão nữa. Ông lão đành tiếp tục trầm mặc ít lời, nét mặt ít nhiều cũng có chút tủi thân.
Mỗi ngày tôi đều ngủ hết buổi sáng, trưa mới dậy, buổi chiều ngồi trên sân thượng khách sạn tắm nắng.
Gác chân lên lan can gỗ, ngắm nhìn dãy núi cao thấp nhấp nhô đằng x...



