| Võ Lâm U Linh Ký» Xếp hạng: ![]() » Đánh giá: 4.5/5,10 bình chọn » Đăng lúc: 14/06/16 08:53:59 » Đăng bởi: Trung Hi » Chia Sẻ: ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
Chân Như tử, sư thúc của chưởng môn phái Thanh Thành phì cười:
- Đạo đời có lúc sáng, lúc mờ, vận nước lúc suy lúc thịnh, hà tất hòa thượng ngươi phải lo lắng như vậy?
Thuần Chân thượng nhân ngượng ngùng đáp :
- Tiểu tăng cũng biết nhưng bất nhẫn trước cảnh máu xương chồng chất ! Tự cổ chí kim mỗi lần kẻ gian hùng xuất hiện là máu lại chảy thành sông!
Người cảnh giới khu thạch trận là Tà Kiếm Hắc Thái. Gã chạy vào báo cáo:
- Bẩm chư vị ! Hai phe Giáng Ma hội và Quỉ giáo đã lần lượt rời thạch trận. Cùng đi với Bách Biến Ma Quân là một lão nhân áo vàng lạ mặt !
Vạn Gia Táo Quân hồ hởi nói:
- Nếu Thiên Võng Thư Sinh cũng đã rời nơi này thì chúng ta kéo nhau vào thăm Vạn Thư Cung và tìm kiếm Hiên Viên công tử!
Đề nghị hấp dẫn này được mọi người tán hưởng nhiệt liệt . Ai cũng muốn một lần được vào nơi thần bí nhất võ lâm. Nhưng trong Vạn Thư Cung không hề có một quyền bí kíp nào, và Dao Quang cũng biệt tăm. Quần hào bắt đầu lo lắng, hơn trăm người chia nhau lục soát khắp nơi. Song tiếc rằng, chẳng ai nghĩ đến truyện trèo lên cây cổ thụ đầy gai hay sườn núi Khiêu Vân cả. Lực lượng Cái bang Lạc Sơn cũng được điều động, họ lục soát khắp vùng suốt nửa tháng trời mới bỏ cuộc Bọn Thần Bút Lực Sĩ lùi thủi trở về Giang Tây, lòng nghi hoặc không nguôi vì sự mất tích bất ngờ của Dao Quang. Hai tháng sau, cả võ lâm đều biết tin Lư Sơn Kỳ Hiệp thất tung, và Hiên Viên gia trang treo giải thưởng ngàn lượng vàng ròng cho bất cứ ai tìm thấy Dao Quang, dù sống hay đã chết. Và quả thực là chàng trai anh hùng đất Giang Tây đang sắp chết. Dao Quang đã ăn hết con độc xà cuối cùng, đang cầm hơi bằng cách dùng Hắc Thiết Yến ném rơi những tai nấm mọc trên nóc động. Trần hang đá vôi ẩm ướt nên nấm phát triển được. Loài nấm lạ này lớn bằng bàn tay, có màu vàng nhạt, vị đăng đắng. Dao Quang ăn vào nghe khí lực sung mãn, lòng càng thêm chua xót. Dù chàng có thêm vài chục năm công lực cũng chẳng thể phá nổi vách đá dầy hàng trượng để thoát thân, trước khi chết vì đói Chàng đã ra sức đào bới khắp nơi, gãy cả trường kiếm mà vẫn không tìm được chỗ đất mềm. Còn những lỗ trên trần hang thì chỉ lớn hơn miệng tô canh một chút, dẫu có bò đến nơi cũng vô ích. Trong hoàn cảnh tuyệt vọng này Dao Quang nhung nhớ da diết những người thân, tha thiết được sống để cùng họ đoàn viên. Niềm thương nhớ biến thành nỗi thống khổ, khiến chàng suy sụp hẳn. Do vậy, Dao Quang cố quên thực tại bằng cách luyện công phu trong Thiên Võng Võ Kinh. Hai môn khiến chàng quan tâm nhất chính là kiếm pháp và khinh công. Dao Quang có thiên bẩm võ học cực cao nên dễ dàng tiếp thu bất cứ tuyệt học nào. Chàng lại bị thôi thúc bởi ý định so sánh sở học của Thiên Võng Thư Sinh với võ công Lư Sơn phái nên tìm hiểu rất kỹ. Dao Quang đã tìm ra lai lịch thật của pho khinh công, nhờ những tư thế ngả nghiêng kỳ ảo. Té ra Thành Tu Ý ăn cắp tuyệt học Xúc Địa Thành Thốn của Tả Từ đại tiên ! Còn Thiên Võng kiếm pháp thì chính là Lưu Tinh kiếm pháp được nâng cao, chỉ lợi hại khi phối hợp với những bước chân ma quái của bộ pháp Xúc Địa. Giờ đây chàng đã nắm vững sở trường của Thiên Võng Thư Sinh thì lão không mong gì chiếm nổi ưu thế như đã tự khoe khoang. Nhưng hỡi ơi, Dao Quang nào có cơ hội để gặp lão ta. Giữa tháng sáu, Dao Quang nhịn đói đã ba ngày đêm chỉ uống nước cầm hơi. Chàng biết mình sắp chết nên đến vũng nước lớn trên sân động tắm gội lần cuối cùng. Cả tháng nay mưa hạ rơi nhiều nên lượng nước trong hang khá dồi dào. Trong lúc kỳ cọ, Dao Quang vô tình làm đứt dây tơ của mảnh U Linh Tuần Sát lệnh phù. Chàng vội nhặt lên nối lại, rửa thật sạch rồi đeo vào cổ. Chàng tôn kính ân sư nên không bao giờ làm trái lời ông. Và trong phút giây này, lời dặn dò kỳ lạ của tiên ông bỗng hiện ra rất rõ nét. Sau đó là những đoạn văn thần bí, hoang đường trong quyển U Linh Quy Tạng. Dao Quang tần ngần suy nghĩ:
- Nay ta sắp chết cứ thử một lần xem sao ! Ân sư đã di ngôn tất phải có hiệu dụng!
Lòng đã quyết, chàng thanh thản tắm gội kỹ càng, mặc lại y phục, trèo lên giường đá nằm ôn lại văn tự trong phu U Linh Quỷ Tạng. Trong suốt tháng trời, ăn nắm lạ, cơ thể Dao Quang nóng bức nên thường tĩnh tọa, hoặc ngủ trên tảng băng thạch mà không thấy rét. Và chàng hiểu rằng cơ thể mình sẽ không thối rữa nhờ cái lạnh băng giá của bảo vật này. Dao Quang rút kim bạc cắm sâu vào tử huyệt Đản Trung, giao điểm của đường dọc xương ức và đường nối hai núm vú. Đây là huyệt mộ của tâm bão, huyệt hội chỉ khí, huyệt hội với các kinh Tiểu Trường, Tam Tiêu, Tỳ và Thận. Trong môn châm cứu, người ta tuyệt đối không dám đụng đến huyệt Đản Trung. Dao Quang rùng mình vài cái rồi ngất lịm, chỉ nửa khắc sau là tuyệt khí. Và hồn phách chàng lìa khỏi xác, ngơ ngác nhìn chính mình cứng đơ, ngực áo phanh rộng, lấp lánh ánh xanh của thẻ ngọc U Linh Tuần Sát lệnh phù. Chàng cúi xuống nhìn ngực mình thì thấy cũng có một mảnh y như vậy. Dao Quang ra đứng ngay tia nắng từ nóc động rọi xuống để thử xem hồn ma có sợ ánh dương quang hay không? Lạ thay, ánh nắng xuyên qua người chàng, chẳng hề gây khó chịu và cũng không có bóng. Dao Quang mừng rỡ, hiểu rằng phép xuất hồn trong U Linh Quỷ Tạng quả là linh điệu phi thường. Chàng sẽ quay lại Long Hổ Sơn, báo tin cho người thân đến đây phá núi mang xác về, sau đó nhạc phụ chàng là Thiên Sư giáo chủ sẽ lập đạo đàn sẽ triệu hồn chàng nhập lại xác kia. Giờ đây, Dao Quang chỉ là một ảo ảnh nhẹ bỗng như sương khói. Chàng chỉ nhún chân một cái đã bay vút lên trần động, xuyên qua lỗ thông sáng mà ra ngoài.
Đại ác hốt nhiên thành đại thiện -Thanh Thành sơn thượng hữu u linh -
Dao Quang ngoái lại nhìn rặng Lạc Sơn và vầng dương để xác định phương hướng rồi thẳng tiến về đông. Chỉ vài chục dặm nữa chàng sẽ đến đường quan đạo nối Thành Đô và Ba Huyện. Dao Quang nhận ra cước lực mình nhanh như gió, lòng bùi ngùi tự nhủ giờ đây chàng đã là một oan hồn vất vưởng. Cuối canh hai, Dao Quang đến cửa tây thành An Nhã, giật mình nhận ra hai gã Diêm Quỷ đầu trâu, mặt ngựa, tay cầm chiêu hồn phướn và gậy tang. Muốn thử uy lực của mảnh ngọc U Linh Tuần Sát lệnh phù, Dao Quang lướt lên, quay lại chặn đầu họ. Kỳ diệu thay, hai gã Diêm Quỷ cung kính vòng tay cúi đầu vấn an:
- Chẳng hay Thần Sát có điều chi dạy bảo?
Dao Quang cố nín cười, hỏi vu vơ:
- Nhị vị đi bắt hồn ai vậy?
Gã mặt ngựa đáp:
- Cung bẩm Thần Sát! Gã Du Hoạch Lạc ở đất An Nhã nổi danh đào hoa công tử, được xếp vào hàng thứ tư trong Giang Hồ Lục ác. Họ Du háo sắc thành tật, giết oan nhiều người nên tuổi thọ chỉ được bốn mươi hai. Giờ tý đêm nay gã sẽ mệnh chung.
Một ý niệm thoáng lóe lên trong đầu. Dao Quang vui vẻ nói:
- Hay lắm! Ta sẽ đi cùng nhị vị.
Hai gã Diêm Quỷ dẫn Dao Quang vào thành, đến một tòa trang viện đồ sộ và tráng lệ, khuôn viên rộng đến hàng chục mẫu. Dao Quang không ngờ Tứ ác lại là một kẻ giầu nứt đố đổ vách như vậy ! Lúc chàng hạ sơn hành hiệp, Đào Hoa công tử đột nhiên biến mất, chẳng hề ló mặt. Thì ra gã ẩn thân trong cảnh giàu sang tột bậc ở đất An Nhã này. Võ lâm xếp Du Hoạch Lạc vào hàng Lục ác Nhân vì gã xứng danh khẩu phật tâm xà. Dung mạo của gã rất anh tuấn, miệng luôn cười tươi, kể cả lúc giết người. Nạn nhân thường bị chặt đứt cả tứ chi, rồi chết vì quá đau đớn, hoặc sống lê lết trong cảnh tàn phế. Đào Hoa công tử rất khôn ngoan, không đụng chạm đến các cao thủ bạch đạo và thường khiêu khích cho đối phương xuất thủ trước, nhờ vậy gã tránh được sự luận tội của võ lâm. Nhưng về mặt tình trường, với dung mạo đẹp đẽ và tài sản kếch sù, họ Du đã chinh phục được khá nhiều mỹ nhân. Tổng cộng gã có đến hai mươi hai thê thiếp, nổi tiếp đào hoa. Tiếc rằng chẳng nàng nào chịu sinh cho gã một đứa con, bất kể trai hay gái. Đào Hoa công tử lo lắng việc tuyệt tự nên ra sức thuốc thang, miệt mài giao hoan, những mong tìm người thừa tự. Khổ thay, gã lại ngộ độc vì một phương thuốc tráng dương bí truyền và sắp sửa qua đời. Mẹ gã là Du lão phu nhân lo sốt vó, một mặt mời đại phu, một mặt mời đạo sĩ đến lập đàn Đảo Mệnh. Nghi lễ cầu đảo của Trung Hoa có từ thời thượng cổ, chứ không phải là ý tưởng của Tam Giáo: Phật, Lão, Khổng. Người Trung Hoa cổ cho rằng “thiên nhân tương dữ,” trời với người có quan hệt mật thiết. Vì vậy, mỗi khi gặp tai họa. Người ta thường trai giới, tắm gội sạch sẽ, rồi cúng tế trời đất để khẩn cầu sự giúp đỡ. Hạn hán cầu mưa gọi là đảo vũ, bệnh nặng cầu sống gọi là đảo mệnh. Đảo vũ được thực hiện bởi các vị vua hay quan lại của địa phương gặp đại hạn. Còn đảo mệnh thì bất cứ người nào, nhà nào cũng có thể làm khi bệnh trầm kha. Thời Tam Quốc, Khổng Minh Gia Cát Lượng đã từng lập đàn cầu sống thêm vài năm để hoàn thành ý nguyện thống nhất Trung Hoa vào tay nước Thục. Có lẽ trời xanh không chấp thuận nên để Ngụy Diên làm tắt mất ngọn đèn chủ. Xa hơn nữa. vào thời Xuân Thu, Khổng tử già yếu sắp chết, học trò khuyên ngài Cầu Đảo thì ngài đáp rằng “ngô đảo cửu hỉ” (ta cầu đảo đã lâu rồi). Ví dụ này đã chứng minh tục lệ cầu đảo có trước thời Xuân Thu. Khổng Khâu và Gia Cát Lượng đều là những bậc đại nhân, đại nghĩa. phẩm cách cao cả nên có thể tự cầu đảo cho mình. Còn người đời sau thì đủ cả tham, sân, si đành phải nhờ đến các bậc chân nhân, đạo hạnh cao thâm cúng tế dùm. Du lão phu nhân cũng biết con trai mình tội ác ngập đầu, nhưng lòng mẹ thương con không bờ bến, nên bà đã bỏ ra ngàn lượng bạc, mời quán chủ đạo quán Thiên Sư giáo thành An Nhã lập đàn đảo mệnh. Lão phu nhân là một tín đồ đầy công đức với đạo quán, hàng năm cúng dường khá nhiều ngân lượng nên Thanh Điền chân nhân chẳng dám chối từ, dầu trong lòng biết chắc là thất bại. Sau sáu đêm tụng niệm, múa may, bệnh tình Đào Hoa công tử càng thêm nguy kịch, và đêm nay là đêm thứ bảy, đêm cuối cùng của nghi lễ cầu đảo. Đầu giờ tý, Du Hoạch Lạc trút hơi thở cuối cùng, được vị đại phu xác nhận là đã chết hẳn. Tiếng khóc của Du lão phu nhân và hai mươi hai quả phụ vang lên ảo não, chấn động cả đêm trăng tĩnh mịch. Thanh Điền chân nhân rầu rĩ quát bọn đệ tử thu dọn đồ nghề rồi lủi thủi trở về đạo quán. Hai gã Diêm Quỷ cáo từ Dao Quang, áp giải vong linh Du Hoạch Lạc về Quỷ Môn Quan trên đất Phong Đô, cũng thuộc tỉnh Tứ Xuyên. Chờ chúng đi khỏi, Dao Quang vào phòng người chết, lẩm bẩm niệm một đoạn thần chú trong U Linh Quỷ Tạng, ngón tay trỏ vẽ một đạo bùa lên tử thi. Lập tức hồn phách của chàng nhập vào xác của họ Du. Dao Quang thử cử động mấy đầu ngón chân, ngón tay, thấy chúng ngoan ngoãn nghe theo, chàng rất hài lòng. Nhưng Dao Quang phân vân, không biết phải cư xử thế nào với người thân của Đào Hoa công tử, nên vẫn nằm im suy nghĩ . Chợt Du lão thái gạt lệ đứng lên, bước ra cửa sổ thông với vườn hoa. sụt sùi gọi:
- Toàn nhi mau vào đây! Đại ca ngươi đã quy tiên.
Có tiếng dạ nho nhỏ, và lát sau một hán tử tuổi ba mươi lăm, ba mươi sáu rụt rè bước vào. Gã mặc bộ áo học trò bằng vải xấu, có vài mụn vá. Mặt mũi khôi ngô nhưng rất hiền lành, nhu nhược. Dao Quang hé mắt nhìn, đoán gã này là em Du Hoạch Lạc, nhưng không biết có phải ruột rà hay bà con thôi. Chàng thư sinh nghèo vén áo quỳ xuống trước giường để xác, bùi ngùi khấn: – Dù đại ca hắt hủi, không xem tiểu đệ là em ruột, nhưng trong lòng Du Tiểu Toàn này luôn nhớ rằng chúng ta cùng chung huyết thống.
Trong đám quả phụ, có một nàng áo xanh tuổi ba mươi đứng lên mỉa mai:
- Lúc còn sinh tiền, tướng công bọn ta đã tuyên bố ngươi không ...



